Bác Ái trong lời nói: Sự Hợp Lý của Thượng Đế

   

Thượng Đế cấu tạo cơ thể con người một cách rất hợp lý, nhưng sao chúng ta lại không sử dụng nó theo đúng ý của Ngài.

Báo “Kiến Thức Ngày Nay” số 636, ra ngày 10 tháng 4 năm 2008, trong mục “suy ngẫm”, tác giả Hải Âu đã sưu tầm được một mẩu ngăn ngắn, mà gã xin mượn tạm để trình làng:

“Thử nghĩ mà xem, Thượng Đế cấu tạo cơ thể con người một cách rất hợp lý, nhưng sao chúng ta lại không sử dụng nó theo đúng ý của Ngài:

– Ngài đặt hai mắt chúng ta ở đằng trước, vì Ngài muốn chúng ta luôn hướng tới phía trước, chứ không phải để chúng ta cứ ngoái nhìn về những sự việc ở phía sau.

– Ngài đặt hai tai chúng ta ở hai bên là để chúng ta nghe từ hai phía, cả lời khen lẫn tiếng chê, chứ không phải để chúng ta chỉ nghe từ một phía hoặc chỉ để nghe những lời tâng bốc êm tai.

– Ngài tạo cho chúng ta chỉ một cái miệng và một cái lưỡi mềm mại, vì Ngài muốn chúng ta nói ít nghe nhiều và chỉ nói những lời khôn ngoan, chứ không phải để chúng ta nói nhiều hơn nghe và nói những lời sâu hiểm là tổn thương người khác.

Tiếp tục đọc

Bác Ai trong lời nói: THÁNH HOÁ LỜI NÓI

  1.    Ngôn ngữ: Đặc ân của xã hội loài người

Trong tất cả mọi thụ tạo hữu hình, chỉ loài người có tiếng nói. Loài chim có tiếng hót véo von, nhưng chỉ có một vài điệu quen thuộc. Loài thú vật chỉ có những tiếng kêu đơn giản. Chỉ riêng có loài người mới có tất cả hệ thống ngôn ngữ tinh vi diễn đạt được hết mọi trạng thái phức tạp của tâm hồn, mọi khung cảnh của vũ trụ.

Bởi vì ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu được xã hội quy định ý nghĩa và mọi phần tử trong xã hội đều có thể sử dụng nó như một dụng cụ để biểu cảm và trao đổi.

Đọc Thánh Kinh chúng ta thấy có câu chuyện tháp Babel giải thích về nguồn gốc ngôn ngữ: khắp nơi trên trái đất nói cùng một thứ tiếng như nhau (St 11,1). Nhưng vì kiêu ngạo, muốn biểu dương quyền lực bằng cách xây một ngọn tháp cao thấu trời (St 11,4) nên con người đã bị phạt: tiếng nói trở thành lộn xộn, không hiểu được nhau (St 11,7). Như vậy, ta thấy khi loài người kiêu ngạo, phô trương là lúc họ không thể thông cảm với nhau được.

Ngôn ngữ là phương tiện diễn tả tư tưởng của mình và là cách thế để tạo mối thông cảm giữa các cá nhân. Lời nói đó chỉ có thể đạt tới kết quả sự hiểu biết lẫn nhau, nếu loài người sống khiêm nhường, tùng phục Thiên Chúa, vâng giữ giới răn Người.

Đối với loài vật vô tri giác, chúng không bao giờ có trách nhiệm về tiếng kêu và tiếng hót của chúng. Nhưng con người phải trả lẽ về từng lời đã nói. Trong dụ ngôn nén bạc, ta thấy chủ bảo tên đầy tớ bất trung: “Ta sẽ xử với người theo lời miệng ngươi nói” (Lc 19,22).

Chính lời nói mà ngươi được trắng án. Cũng chính bởi miệng lưỡi mà chính ngươi bị kết án. Như vậy, xem ra lời nói có phần quan trọng rất lớn trong đời sống một tín hữu. Lời nói có thể ảnh hưởng tới vận mệnh đời đời của các linh hồn.

Đây là một vấn đề then chốt trong cuộc sống, đó là việc thánh hoá ngôn từ. Thánh Giacôbê rất chí lý khi khẳng định: “Nếu ai không sai lỗi trong lời nói, đó là người hoàn thiện” (Gc 3,2).

Việc kiềm chế miệng lưỡi không phải chỉ là một thuật xử thế, một cách tỏ mình ra đạo mạo thận trọng, mà còn là một vấn đề tu đức. Ta hãy nghe thánh Giacôbê lập luận: “Nếu ta tra hàm thiếc vào mõm ngựa, để bắt chúng theo ý ta, thì ta cũng hướng dẫn một trật cả thân mình chúng. Như bánh lái rất quan trọng trong việc điều khiển chiếc thuyền. Và dù có bị cuồng phong đẩy mạnh chúng cũng được hướng dẫn do một bánh lái bé nhỏ, nó đi đến đâu tuỳ ý người hoa tiêu. Cũng vậy, lưỡi chỉ là một phần cỏn con trong thân thể con người, như tàn lửa nhỏ thế mà đốt cháy cả tán rừng lớn: lưỡi là lửa” (Gc 3,3-6).

Tiếp tục đọc

Bác Ái trong lời nói: SỨC MẠNH CỦA LỜI NÓI

 
Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương, để anh em biết đối đáp sao cho phải với mỗi người.” (Cl 4, 6).

Lời nói phát xuất từ bên trong

Lời nói thể hiện con người: “Xem quả thì biết vườn cây, nghe lời miệng nói biết ngay lòng người.” (Hc 27, 6). Nguyên nhân sâu thẳm của lời nói phát xuất từ bên trong, do tâm ý mà có. Vì thế, những lời nói tồi tệ phóng ra qua cửa miệng bên ngoài chứng tỏ người ta đã trở nên ô uế từ ở cõi lòng mình: “Còn những cái gì từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng, chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế. Vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống.” (Mt 15, 18-20 ).

Lòng đã xấu thì không thể phát ra điều tốt được. Chính vì nhận thấy điều gian ác nơi lòng những người Pharisêu, nên Chúa Giêsu đã từng nói thẳng với họ: “Loài rắn độc kia, xấu như các người, thì làm sao nói điều tốt được? Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của mình; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình.” (Mt 12, 34-35 ).

Do lòng ganh tị và ghen ghét ít nhiều nằm vùng trong tâm hồn mỗi người, nên ta dễ bị cám dỗ phát ra những lời nói tai hại với một ai đó, làm hủy hoại thanh danh và đời sống tinh thần của họ. Vì thế, để có thể nói những gì tốt lành và hữu ích đòi ta phải chỉnh sửa và thanh lọc từ bên trong của lòng mình. Điều quan trọng nhất là có được tấm lòng yêu thương. Khi có một tấm lòng thực sự biết thương yêu mọi người, tự nhiên người ta biết cách phải nói như thế nào cho thích hợp và sinh ích lợi cho người nghe.

Khi dùng những lời phê phán tiêu cực chứng tỏ mình không có tình thương. Phê phán tiêu cực là một cách thế cố tìm cách bôi xóa tên của kẻ khác để thay thế tên mình vào đó. Điều đó nói lên sự đố kỵ và ý đồ muốn chiếm đoạt cách bất công và bất nghĩa. Quả là một cách thế bần tiện, nhưng rồi đó vẫn là điều xảy ra hằng ngày trong đời sống xã hội và cộng đoàn. Lề thói vô tâm này là điều oan trái nhất cho chính mình, “Vì Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót.” (Gc 2, 13).

Tiếp tục đọc

Bác ái trong lời nói: Chia sẻ với bạn lời nói hay

Nghệ thuật nói

 CHIA SẺ VỚI BẠN LỜI NÓI HAY
1. Ít nói lời báo oán, mà nên nói nhiều lời khoan dung. Lời báo oán thì đem lại hận thù, nhưng lời nói khoan dung chính là trí tuệ.

2. Ít nói lởi giễu cợt, mà nên nói nhiều lời tôn trọng. Lời giễu cợt tỏ ra sự khinh thị, mà lời tôn trọng thì tăng thêm hiểu biết.

3. Ít nói lời từ chối, mà nên nói nhiều lời quan tâm. Lời từ chối thì hình thành đối lập, nhưng lời nói quan tâm thì được tình hữu nghị.

4. Ít nói lời ra lệnh, mà nên nói nhiều lời trao đổi ý kiến. Vì lời mệnh lệnh chỉ là tiếp thu, nhưng lời trao đổi ý kiến mới là lãnh đạo.

5. Ít nói lời phê bình, mà nên nói nhiều lời khuyến khích. Vì lời phê bình chỉ tạo thành xa cách, còn lời khuyến khích thì kích thích tiềm năng.
VietCatholic News (Thứ Hai 17/11/2008 18:30)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

ĐỈNH CAO CỦA ĐỨC BÁC ÁI: QUAN TÂM TỚI THA NHÂN

Đọc Phúc Âm, đặc biệt là bài Phúc Âm của Chúa Nhật thứ 16 hôm nay, tôi học được nơi Chúa Giêsu một đức tính thật tuyệt vời. Đó là sự QUAN TÂM tới tha nhân của Ngài:

Chúa Giêsu đã quan tâm đến sức khoẻ của các tông đồ: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mk 6:31).

Ngài đã quan tâm đến đời sống của các tông đồ sau khi Ngài chịu khổ nạn: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi …. Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Jn 14:16, 18).

Chúa Giêsu đã quan tâm tới bạn và tôi cho nên Ngài mới nói: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28).

Chúa Giêsu đã quan tâm đến nhân loại cho nên Ngài đã ban cho chúng mình Thịt và Máu của Ngài “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”(Jn 6:54).

Trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá, Chúa Giêsu cũng đã quan tâm đến sự cô quạnh của thân mẫu: “Thưa bà, đây là con của bà … Đây là mẹ của con” (Jn 19:27).

Bạn thấy chưa? Chúa Giêsu thì hay quan tâm và thường hay chú ý đến những nhu cầu của tha nhân và đáp ứng một cách mau mắn lại những nhu cầu của họ lắm, còn chúng mình thì sao? Bạn và tôi đã biết quan tâm tới người khác hay chưa?

Là người chồng, bạn có quan tâm tới những sự vất vả của vợ chưa? Chị ấy vất vả lắm, vừa tan sở là phải đi đón con, về đến nhà, phải chăm sóc cho chúng, kiểm tra bài vở, dọn dẹp nhà cửa, nấu nướng, rửa chén, lau chùi bếp núc mãi đến tận khuya luôn.

Tiếp tục đọc

Bác Ái Vô Vị Lợi

(Lc 14,12-14)

Phúc Âm: Lc 14, 12-14

“Ông chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật”.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: “Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông. Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn”.

Suy Niệm:

Tiếp tục đọc

BÁC ÁI VÀ YÊU THƯƠNG

Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Jn 13:34-35)

Vào một ngày, khi thầy khổ tu kia bắt đầu cầu nguyện, thầy thấy một bà mẹ nghèo tàn tật cõng trên lưng một đứa con thiếu dinh dưỡng, gầy gò ốm yếu, em là nạn nhân của sự ruồng bỏ và đánh đập. Nhìn thấy thế, thầy ngước mặt lên thân thưa với Chúa: Lạy Chúa chí ái, tại sao Chúa Sáng Tạo yêu thương có thể nhìn cảnh khổ đau và đáng thương như thế mà không làm chi và sao Chúa vẫn cứ lặng thinh? Và trong tận đáy sâu thẳm tâm hồn, thầy nghe tiếng Chúa trả lời: Cha đã làm một vài điều, Cha đã dựng nên con.

1. Yêu Thương
Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh Chúa. Chúa cho mỗi người chúng ta một số nén bạc khác nhau và hy vọng mỗi người tự sinh hoa kết quả. Chúng ta được sinh ra làm người, được dưỡng nuôi trong tình yêu thương của Chúa, của gia đình và đồng loại. Mỗi người đều có trách nhiệm chung được mời gọi chia sẻ và cùng nhau xây dựng cuộc sống xã hội tốt đẹp để mai sau cùng chung hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Chúng ta cần phải nhận diện hình ảnh của Chúa nơi những người anh chị em chung quanh và mỗi người trở thành Kitô với người khác. Thánh Thần bên trong mỗi tâm hồn sẽ biến mọi sự thành sự thật và sự có thể. Trong xã hội, nơi chúng ta đang sinh sống có rất nhiều người nghèo, người kém may mắn, họ rất cần sự giúp đỡ. Nếu chúng ta biết mở mắt tâm hồn trong tình yêu, chúng ta sẽ nhận ra chính Chúa Kitô đang hiện diện nơi những người cùng khốn nhất. Xã hội hiện nay vẫn có rất nhiều người tốt chung quanh. Truyện kể rằng: Trong cuộc đại khủng khoảng kinh tế tại Nước Mỹ, các cơ quan chính phủ đã phân tán khắp các vùng đồi núi để tìm kiếm các gia đình nghèo để họ có thể giúp cho chút vốn sửa sang nhà cửa và hạt giống để gieo trồng. Cơ quan từ thiện đến gặp một bà cụ già sống trong một mái nhà không sàn và nghèo nàn. Cửa sổ bị vỡ và được che đỡ bằng những miếng giấy cứng. Bà chỉ có những thứ đồ dùng căn bản và kiếm ăn từng ngày trên mảnh đất cằn khô. Một nhân viên nói với bà: Nếu chính phủ cho bà 200 đô, bà sẽ làm gì với số tiền này? Bà trả lời ngay: Tôi sẽ giúp cho người nghèo. Có rất nhiều người tốt thật giầu có nhưng lại ít tiền bạc.
Tiếp tục đọc

Sống Mùa Chay 2011

 
 
Mùa Chay là gì?

Mùa Chay là một trong 5 Mùa Phụng vụ của Hội Thánh Công giáo, gồm Mùa Thường niên, Mùa Chay, Mùa Phục sinh, Mùa Vọng và Mùa Giáng sinh.

Như vậy, Mùa Chay là thời gian các Kitô hữu chuẩn bị đón Lễ Phục sinh, mừng Đức Kitô từ cõi chết sống lại.

Mùa Chay bắt đầu từ thứ tư Lễ Tro và kết thúc vào đêm thứ bảy – Lễ vọng Phục sinh.

Năm nay thứ tư Lễ Tro nhằm ngày 9 tháng Ba 2011 và Lễ vọng Phục sinh nhằm ngày thứ bảy 23 tháng Tư 2011.

Vì sao Giáo Hội thiết lập Mùa Chay?

Mùa Chay là giai đoạn chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa sống lại và nhờ đó loài người cũng được Chúa cho sống lại trong ngày sau hết.

Vì thế lễ Phục sinh chính là một khởi điểm, bắt đầu một đời sống mới.

Ngay từ xa xưa, Giáo Hội nhận thấy luôn phải chuẩn bị để bước vào sứ vụ mới, cuộc đời mới:

– Chúa đã chuẩn bị cho Dân được Chúa tuyển chọn bước vào Đất Hứa, bằng cách thanh luyện Dân trong suốt 40 năm đi trong sa mạc.

– Chúa Giêsu đã từng chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc khởi đầu cuộc đời công khai, loan báo Ơn Cứu độ đã đến, bằng việc ăn chay 40 ngày trong hoang địa.

Vì thế Giáo Hội thiết lập Mùa Chay kéo dài 40 ngày, nhằm mời gọi các tín hữu:

– Sống như Dân được tuyển chọn, trải qua 40 năm trong sa mạc, để đức Tin được củng cố.

– Theo gương Chúa Giêsu, chuẩn bị kỹ luỡng cho sứ vụ được Chúa Cha trao phó, bằng cách ăn chay 40 ngày trong hoang địa, chịu sự cám dỗ của ma quỷ và đã chiến thắng, hoàn toàn sẵn sàng cho sứ mạng lớn lao là cứu chuộc loài người.

Vậy, các Kitô hữu chuẩn bị cho việc đổi mới cuộc sống, bằng cách ăn chay, cầu nguyện, sống bác ái yêu thương trong suốt thời gian Mùa Chay 40 ngày.

Tiếp tục đọc

Bác ái Kitô Giáo Bác Ái của Tin Mừng

Tâm lý triết học chia bác ái ra làm nhiều loại tuỳ theo đặc tính của nó: bác ái đổi chác, theo nghĩa “bánh ít đi, bánh qui lại”; bác ái ngân hàng là bác ái kiểu cho vay lấy lãi một cách sòng phẳng; bác ái vị tha là bác ái hoàn toàn cho đi một cách vô vị lợi; bác ái quảng đại tức là biết sẵng sàng trao ban hơn cả những gì mà đối tượng chờ đợi, v.v… Thế còn bác ái Kitô giáo là loại bác ái nào ? Thưa, đó là bác ái của Tin Mừng, bác ái mang các đặc tính: đại đồng, vị tha và quảng đại.

– Tính đại đồng: Câu hỏi của người luật sĩ, “Ai là cận nhân của tôi ?” phản ánh chiều hướng suy nghĩ của ông. Qua đó ông muốn biết ai là đối tượng của đức ái mà luật dạy: người đồng hương, đồng đạo, người lương dân, hay người ngoại kiều cư ngụ tại Israel ? Tôi phải yêu ai mới gọi là giữ lề luật ? Bởi chưng, người Do thái thời đó hiểu người thân cận chỉ là đồng bào Do thái của mình, hay là đồng đạo với mình, nên họ không thể lưu tâm hay giúp đỡ một người ô uế, thờ ngẫu tượng.

Thế còn đối với Chúa Giêsu thì sao ? Đối với Chúa Giêsu, người thân cận là bất cứ ai, không biệt chủng tộc, màu da, tín ngưỡng… Tất cả đều là anh em, con cùng một Cha trên trời. Khi ra tay giúp đỡ một người được xem là kẻ thù của mình, người Samaria đã thực thi lòng bác ái cách bao dung, đại đồng. Và đây cũng là một nét rất đặc trưng của bác ái Kitô giáo. Quả thế, bác ái Kitô giáo luôn mang tính phổ quát, không loại trừ ai, không cục bộ bè phái, không phân biệt lương hay giáo, Bắc hay Nam, xứ này xứ kia, vùng này hay vùng nọ ….

– Tính vị tha: Thái độ của thầy Tư tế và thầy Lêvi là thái độ của những người chỉ biết quan tâm đến lề luật, hay đúng hơn là chỉ biết quan tâm đến bản thân mình. Khi gặp tình huống khó khăn, họ nghĩ đến bản thân họ trước. Họ đã “tránh sang một bên” mà đi, bỏ mặc người bị nạn. Vì sao ? Vì họ sợ bị phiền hà liên lụy, sợ mất thời gian, mất công, sợ bị ô uế khi chạm vào người bị thương hay người chết. Có thể nói, thầy Tư Tế và thầy Lêvi chỉ chú ý giữ luật ở trên sách vở; trái lại, người Samaria giữ luật trong tim.

Tiếp tục đọc

Ngôn ngữ Thập Giá

NGÔN NGỮ CỦA THẬP GIÁ

Hai cây gỗ, một ngang một dọc, vốn là dụng cụ hành hình tội nhân, kể từ biến cố trên đồi Can-vê năm xưa đã mang một ý nghĩa mới. Cây gỗ ấy mang tên thập giá. Thập giá, một danh từ gợi nhớ gợi thương. Gợi nhớ vì nó giúp ta hướng về một sự kiện trong lịch sử, đó là cái chết của Đức Giêsu thành Na-gia-rét. Gợi thương, vì đó là bằng chứng hùng hồn về tình thương bao la của Thiên Chúa. Qua vụ án Đức Giêsu, sự thật bị đảo ngược: Con Thiên Chúa bị xét xử như một tội nhân, Đấng công chính bị giết hại như tên phản phúc. Đã hai ngàn năm, thập giá vẫn đứng đó, vẫn vươn cao như muốn nối đất với trời, vẫn giang rộng như muốn kết liên mọi nước. Ngôn ngữ của thập giá không ồn ào nhưng nhẹ nhàng thinh lặng, không bay bướm nhưng đơn sơ trầm lắng:

“Thập giá ngất cao trên đồi, thập giá ơi

Người mong nói gì, nói gì với đời?” (Thánh ca)

1-Thập giá mời gọi nhận ra tình Chúa yêu thương

Cây thập giá sẽ mãi mãi là một dụng cụ hành hình ghê rợn nếu nó không được mang trên mình Đức Giêsu Đấng cứu độ trần gian. Huyền nhiệm thay Thánh ý Thiên Chúa! Ngài có thể cứu chuộc nhân loại bằng nhiều cách, nhưng cây thập giá lại được dùng như  khí cụ và dấu chỉ của tình thương bao la. Đức Giêsu đã tự nguyện đón nhận cuộc khổ hình. Người đã chọn cây gỗ thập giá như bàn thờ để dâng hy tế là chính bản thân Người lên Chúa Cha. Chính từ cây thập giá mà Đức Giêsu muốn khẳng định với nhân loại: Thiên Chúa yêu thương loài người

“Ôi thập giá vinh phúc vô song

Chỉ mình ngươi xứng đáng mang thân thể Chúa là chính Vua trời

Máu đào Người đổ ra chan chứa

Sẽ chữa lành mọi thương tích phàm nhân” (Thánh ca).

Chính vì thế mà chúng ta cung kính thờ lạy và tôn vinh:

“Kính chào thập giá Chúa Kitô

Cây đã thành trường sinh bất tử,

Trên đó chính Vua Trời đã ngự

Đã chết vì yêu để cứu đời. (Trăng Thập Tự)

Xa xưa vào buổi ban đầu của lịch sử, có một cây được trồng trong vườn địa đàng. Cây ấy sinh ra quả “ăn thì ngon, trông thật sướng mắt” (St 3, 6). Tuy vậy, sắc đẹp của trái lại chứa sự chết, vị ngon của quả lại mang mầm tội. A-đam và vợ mình là E-và đã ăn trái cây và đã phải chết. Họ muốn được nên như các vị thần linh, nhưng rốt cuộc phải lãnh án trầm luân đau khổ. Câu chuyện trái cấm là câu chuyện buồn, để lại những hậu quả tai hại cho mọi thế hệ nhân sinh.

Trên đồi Can-vê, cây thập giá được dựng nên để đem lại thuốc trường sinh chữa lành bệnh tật gây ra bởi cây trái cấm. Nếu cây của vườn địa đàng là nguyên nhân của chia rẽ, thì cây thập giá lại trở thành tâm điểm của nối kết. Nếu cây địa đàng đem lại hậu quả  là sự chết, thì cây thập giá lại dẫn đến sự sống trường tồn. Trên đồi Can-vê của chiều hôm ấy, đất với trời được nối lại qua chiều dọc của cây gỗ, người với người được liên kết nhờ chiều ngang mãi vươn xa. Giao hòa Thiên Chúa với con người và con người với nhau, đó chính là ơn cứu độ mà Thiên Chúa muốn thực hiện trong Đức Giêsu Kitô.

Trong hành trình cuộc đời, thập giá đem lại cho chúng ta sức mạnh. Nhờ hướng nhìn lên cây thập giá, biết bao nhiêu người nam cũng như nữ trong suốt bề dầy của lịch sử đã tìm được nghị lực vươn lên. Đức Giêsu đã mời gọi chúng ta tiếp bước theo Người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9 23). Đức Giêsu đang đi cùng với chúng ta trong cuộc sống đầy gian nguy thử thách này.

2-Thập giá là tiếng kêu hãy ngưng bạo lực

“”Đem đi! Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!” (Ga 19,15). Trước đám đông hỗn loạn gồm những người bị kích động tới mức say máu, Đức Giêsu bị lên án như một kẻ phản loạn. Người ta xin ân xá cho Ba-ra-ba, một tên trộm cắp, để đòi giết chết Đức Giêsu, Đấng là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Một vụ án được xét xử vội vàng, vào ban đêm, với những lời buộc tội bất công và những lời vu khống đầy ác ý. Con Thiên Chúa vẫn thinh lặng trước đám đông, như con chiên hiền lành bị đem đi giết. Đức Giêsu đã lấy hiền từ để đối lại với bạo lực. Người đã dùng tình yêu để chiến thắng hận thù. Cây thập giá mời gọi hãy lấy yêu thương mà thắng cường bạo. Trong quá khứ cũng như hiện tại, có nhiều người mệnh danh tôn giáo để gây bạo lực, để tàn sát dân lành. Người ta nhân danh công bằng để gây thêm thù oán. “Sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa (Ga 16,2). Đức Giêsu đã tiên báo những thử thách mà các tín hữu sẽ phải trải qua.

 Cũng chính từ từ  ích kỷ tham lam của con người mà trong xã hội, bạo lực có nguy cơ ngày càng phát triển. Người ta tàn sát chém giết lẫn nhau vì những lý do rất đơn giản. Có những mạng người bị đánh đổi một cách tang thương, phi lý. Bạo lực không chỉ hoành hành nơi phố chợ, nhưng còn lan đến học đường, nơi công sở và gia đình.

Thập giá đứng đó như một nhân chứng tố cáo bạo lực. Cây gỗ lặng thinh đang nhắc lại cho chúng ta bài học đau thương của quá khứ. Thập giá chính là lời kêu gọi con người hãy dừng bạo lực, hãy thôi chiến tranh và tận diệt oán thù. Bởi lẽ oán thù chỉ làm cho sự dữ thêm chồng chất, còn tha thứ sẽ làm cho niềm vui được tràn đầy.

3-Thập giá mời gọi quảng đại thứ tha

Trong cuộc sống “hiện đại” hôm nay, xem ra nguyên nhân chia rẽ  ngày càng nhiều. Người ta sống trong cơn lốc quay cuồng của hưởng thụ, chạy đua với những hình thức ăn chơi. Đạo lý luân thường bị coi nhẹ, tôn giáo lương tâm bị khinh thường. Giữa những xô bồ của cuộc sống, thập giá như một lời mời gọi yêu thương.

“Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệu sự thù ghét (Eph 2,16)

Thập giá nhắc lại tội ác tầy đình của con người, đó là tội giết Con Thiên Chúa. Nhưng thập giá cũng là biểu tượng của sự thứ tha. Đức Giêsu trên thập giá đã xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết mình. Hôm nay, thập giá vẫn đang tiếp tục thầm thì kể với chúng ta về lòng nhân ái và thứ tha quảng đại. “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em”  (Mt 5,44). Lời dạy này xem ra có vẻ ngược đời nhưng đó chính là tính ưu việt của Kitô giáo. Khi yêu thương và tha thứ cho kẻ làm hại mình, chúng ta trở nên cao thượng hơn, giữa cuộc đời ô trọc và đầy rẫy những bất công.

Để biện minh cho chính sách “khoan dung tôn giáo”, tại một số trường học công giáo ở Âu châu và Mỹ châu, người ta đề nghị dỡ bỏ thập giá tại các lớp học. Với lập luận cho quan điểm “tự do”, tại nhiều gia đình, người ta muốn bỏ thập giá trên bàn thờ. Hậu quả là bạo lực, gian dối và những hành vi vô đạo đức lan tràn đến mức báo động ngay tại môi trường huấn luyện con người. Mới đây, một nữ công dân Italia, Bà Sonia Lautsi, đã đệ đơn khiếu kiện và cho rằng sự hiện diện của thập giá trong các lớp học không phù hợp với những phụ huynh chủ trương không tôn giáo. Ngày 18-3-2011, Toà án nhân quyền cấp cao của Âu Châu tại Strasbourg đã bác bỏ đơn kiện đồng thời phán quyết ủng hộ việc treo thập giá tại các lớp học.

Không như cây sậy bị uốn cong và phất phơ trước gió, thập giá vẫn vươn cao giữa bao phong ba của cuộc đời. Thập giá là cờ hiệu chiến thắng của Đức Kitô, đồng thời là nguồn hy vọng cho những ai tin cậy nơi Người. Chúng ta hãy học ngôn ngữ của cây thập giá, để nhờ đó, mỗi tín hữu trở nên những người gieo mầm yêu thương, trồng cây hạnh phúc và làm nở hoa thứ tha. Qua ngôn ngữ khiêm tốn mà cao siêu của thập giá, chúng ta có thể khẳng định cho mọi thế giới hôm nay rằng: Thiên Chúa yêu thương loài người.

    +Gm Giuse Vũ Văn Thiên

 Nguồn : http://gphaiphong.org/vietnam/?act=news&mID=88&nID=1512